Thể loại Từ, Kịch và tiểu thuyết của Trung Quốc

T

     Vốn ra đời vào cuối đời Đường, do thơ Đường biến thể mà thành. Từ là lời thơ của các điệu nhạc có sẵn, vì vậy số câu, sốchữ, âm điệu của từ là tuỳ thuộc vào các điệu nhạc, do đó càu thơ của từ thưởng dài ngắn không đều nhau chứ không phải bị ràng buộc bởi những quy tắc chặt chẽ như thơ Đường.

     Đời Tống là thời kì phát triển nhất của từ. Những người sáng tác từ nổi tiếng lúc bấy giở là Liễu Vĩnh, Tô Thức, Tân Khí Tật, nữ sĩ Lý Thành Chiếu v.v…

     Do sự phát triển của từ, ca hát trở thành một môn nghệ thuật rất thịnh hành trong xã hội thượng lưu và đô thị. Lúc bấy giở, trong cung đình thì thiết lập “giáo phưởng”, ở các thành phố lớn thì có “ca lâu”, thậm chí trong phủ riêng của một sốquý tộc quan lại lớn cũng nuôi đào hát và vũ nữ.

Thể loại Từ, Kịch và tiểu thuyết của Trung Quốc

Kịch

     Là hình thức văn học nghệ thuật tiêu biểu của đời Nguyên. Từ thời Tống, Kim, loại kịch đơn giản phối hợp giữa hát, nói, múa, đàn đã xuất hiện. Trên cơ sở kế thừa và tổng hợp các hình thức nghệ thuật như từ, hí kịch và những câu chuyện lưu truyền trong nhân dân, các nhà biên kịch đời Nguyên đã dựng nên những vở ca vũ kịch hoàn chỉnh. Số kịch bản đã biên soạn dược là khoảng 500 vở, nhưng lưu truyền đến nay chỉ còn hơn 100 tác phẩm mà thôi. Nhà soạn kịch ưu tú nhất đời Nguyên là Quan Hán Khanh. Ông viết được hơn 60 kịch bản, nay còn truyền lại 18 tác phẩm, trong đó các vở Đậu Nga oan (nỗi oan của nàng Đậu Nga), Bái nguyệt đình (Nhà đón trăng), Vọng giang đình (Nhà ngắm sông), Đơn dao hội (Đơn dao dự hội) v.v… là có giá trị nhất. Qua các tác phẩm ấy, tác giả đã lên án nền thống trị tàn bạo của quý tộc Mông cổ và thể hiện tinh thần đấu tranh vì chính nghĩa của mình.

     Ngoài Quan Hán Khanh, Vương Thực Phủ, tác giả vở kịch Tây sương kí (Mái Tây), cũng là một nhà soạn kịch nổi tiếng lúc bấy giở.

     Tiểu thuyết là một hình thức văn học mới bắt đầu phát triển từ thời Minh – Thanh. Trước đó, ở các thành phố lớn thường có những người chuyên làm nghề kể chuyện, đề tài của họ thường là những sự tích lịch sử. Dựa vàonhững câu chuyện ấy, các nhà văn đã viết thành các “tiểu thuyết chu hồi”. Những tác phẩm lớn và nổi tiếng trong giai đoạn này là Truyện Thuỷ hửcủa Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩacủa La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hông lâu mộng của Tào Tuyết Cần v.v…

     Truyện Thuỷ hử kể lại cuộc khởi nghĩa nông dân ở Lương Sơn Bạc do Tống Giang lãnh đạo. Vì vậy thời Minh – Thanh, tác phẩm này bị xếp vào loại sách cấm, nhưng sự tích các anh hùng Lương Sơn Bạc thì vẫn được lưu truyền trong nhân dân và đã có tác dụng cổ vũ rất lớn đối với sự đấu tranh của nông dân chống sự áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến.

     Tam Quốc chí diễn nghĩa bắt nguồn từ câu chuyện ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi kết nghĩa ở vưởn đào lưu truyền trong dân gian, nội dung miêu tả cuộc đấu tranh vềquân sự, chính trị phức tạp giữa ba nước Ngụy – Thục – Ngô.

     Tây du kí viết về truyện Huyền Trang và các đồ đệ tìm đườngsang Ấn Độ lấy kinh Phật, trải qua rất nhiều  gian nan nguy hiểm ở dọc đường, cuối cùng đã đạt được mục đích. Trong tác phẩm này, tác giả đã đặc biệt miêu tả Tôn Ngộ Không thành một nhân vật hết sức thông minh, mưu trí, dũng cảm và nhiệt tình, đồngthời qua Tôn Ngộ Không tính chất chống phong kiến của tác phẩm được thể hiện rất rõ rệt.

     Nho lâm ngoại sử là bộ tiểu thuyết trào phúng viết về truyện làng Nho. Qua tác phẩm này, Ngô Kính Tử đã đả kích chế độ thi cử đương thời và mỉa mai những cái xấu xa của tầng lớp trí thức phong kiến dưới chế độ thi cử đó.

     Hồng lâu mộng viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến và chuyện yêu đương giữa một đôi thiếu niên, qua đó để vẽ nên bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Bằng cách xây dựng cho hai nhân vật chính của tác phẩm là Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc tính cách chống đối chế độ thi cử, chế độ quan trưởng, đạo đức và lễ giáo phong kiến, khát vọng tự do và hạnh phúc, đồngthời dành cho những người thuộc tầng lớp bị coi là thấp kém, những tâm hồn cao đẹp và tình cảm chân thành, tác giả đã đánh khá mạnh vào hệ ý thức của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Vì vậy, Hng lâu mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lich su the gioi

Giới thiệu về Phú và Thơ Đường trong văn học Trung Quốc

     Văn học là một lĩnh vực rất nổi bật trong nền văn hoá Trung Quốc thời trung đại.

     Do kinh tế phát triển mạnh mẽ và toàn diện, do thực tế phong phú và sinh động của cuộc sống trong một đất nước rộng lớn với những điểu kiện tự nhiên nhiều màu nhiều vẻ, do những cuộc đấu tranh phức tạp trong xã hội và đặc biệt là do chính sách dùng văn chương làm thước đo tài năng nên văn học không những có cơ sở phát triển mà cởn rất được khuyến khích.

Giới thiệu về Phú và Thơ Đường trong văn học Trung Quốc

     Trong kho tàng văn học Trung Quốc giai đoạn lịch sử này tiêu biểu nhất là phú đời Hán, thơ đời Đường, từ đời Tống, kịch đời Nguyên và tiểu thuyết đời Minh – Thanh.

Phú

     Là một thể loại văn học đặc biệt của Trung Quốc, trong đó lời văn được gọt giũa rất công phu. Những nhà sáng tác phú nổi tiếng thời Tây Hán là Giả Nghị, Tư Mã Tương Như, Mai Thừa v.v…

     Ngoài phú ra, thơ ca đời Hán cũng phong phú về nội dung và điêu luyện về nghệ thuật hơn trước. Đại biểu cho nền thi ca thời này là Nhạc phủ. Nhạc phủ vốn là tên cơ quan phụ trách vềca nhạc tế lễ do Hán Vũ đế lập ra. Hàng năm cơ quan này cử người đi vào quần chúng để sưu tầm thơ ca của nhân dân, do đó vềsau dân ca cũng được gọi là Nhạc phủ, và chính vì vậy, Nhạc phủ đã mang nhiều tính chất hiện thực phản ánh được đời sống khổ cực và tình cảm của nhân dân.

Thơ Đường

     Là đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc mà các thời đại trước và sau đó đều không sánh kịp. Thơ Đường có một số lượng rất lớn phản ánh tương đối toàn diện đất nước và bộ mật xã hội lúc bấy giờ và đã đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật.

     Trong hơn 2.000 nhà thơ còn lưu tên tuổi đến ngày nay, Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị là ba nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất.

     Lý Bạch (701 – 762) là một người tính tình phóng khoáng, thích tự do, không chịu được cảnh ràng buộc luồn cúi. Do vậy, tuy học rộng tài cao nhưng ông không hề đi thi và chưa làm một chức quan gì chính thức cả. Thơ của Lý Bạch phần lớn tập trung miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng cũng có nhiều bài phản ánh đời sống của nhân dân. Đặc điểm nghệ thuật thơ Lý Bạch là lởi thơ đẹp và hào hùng, ý thơ có màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư sau đây là một ví dụ :

“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,

Xa trông dòng thác trước sông này :

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khi mây“.

     Đỗ Ph(712 – 770) xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Bản thân ông mặc dầu học rất rộng nhưng thi không đỗ, mãi đến năm 40 tuổi mới làm mấy chức quan nhỏ trong 7 năm. Tuy vậy suốt đời ông phải sống trong cảnh nghèo nàn. Cuộc đời lận đận đó đã giúp ông hiểu thấu cuộcsống khổ cực của nhân dân, do đó phần lớn thơ của Đỗ Phủ đều tập trung miêu tả những cảnh bất công trong xã hội, miêu tả cảnh nghèo khổ và những nỗi oan khuất của nhân dân lao động, vạch trần sự áp bức bóc lột và xa xỉ của giai cấp thống trị. Ví dụ, trong bài “Từ kinh đô về huyn Phụng Tiên” ông đã mô tả cảnh trái ngược giữa cuộc sống xa hoa ở cung đình và tình cảnh của nhân dân như sau :

“Móng giò ninh, người xơi rim rót

Thêm chanh chua, quất ngọt, rượu mùi.

Của son rượu thịt để ô

Có thằng chết lả xương phơi ngoài đường.”

     Những bài thơ có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao như vậy cửa Đỗ Phủ rất nhiều, vì vậy ông được đánh giá là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất đời Đường.

     Bạch Cư Dị (772 – 846) xuất thân từ gia đình quan lại, đậu tiến sĩ, đã làm nhiều chức quan to trong triều, nhưng đến năm 44 tuổi thì bị giáng chức làm Tư Mã Giang Châu.

     Bạch Cư Dị cũng đi theo con đường sáng tác của Đỗ Phủ, đã làm nhiều bài thơ nói lên nỗi khổ cực của nhân dân và lên án giai cấp thống trị. Thơ của Bạch Cư Dị không những có nội dung hiện thực tiến bộ mà có nhiềubài đã đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật. Đáng chú ý hơn nữa là trong những bài thơ lên án giai cấp thống trị, ôngđã dùng những lởi lẽ khi thì chua cay, khi thì quyết liệt. Ví dụ lên án sự ức hiếp tàn nhẫn của các quan lại đối với nhân dân trong việc thu thuế, trong bài “ông già Đỗ Lăng” ông đã viết:

Quan trên biết rõ mà không xét

Thúc lấy đủ tô cầu lập công

Bán đất cầm dâu nộp cho đủ

Cơm áo sang năm trông vào đâu ?

Lột áo trên mình ta,

Cướp cơm trên miệng ta

Hại người hại vật là hùm sói

Cứ gì cào móng, nghiến răng ăn thịt người”

     Sau khi bị giáng chức, ông trở nên bi quan, nên tính chiến đấu trong những bài thơ cuối đời của ông không được mạnh mẽ như trước nữa. Mặc dầu vậy, ông vẫn là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn của Trung Quốc đời Đường.

     Tóm lại, thơ Đường là những trang rất chói lọi trong lịch sử văn học Trung Quốc ; đồng thời, thơ Đường đã đặt cơ sở nghệ thuật, phong cách và luật thơ cho nền thi ca Trung Quốc các thời kì sau này.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lịch sử thế giới

Giới thiệu về Đạo Phật

     Từ cuối thời Tây Hán, Phật giáo của Ấn Độ bắt đầu truyền vào Trung Quốc, nhưng đến thời Đông Hán chỉ mới có một số quý tộc theo đạo Phật. Mãi đến thời Tam quốc, Phật giáo mới được truyền bá rộng rãi trong nhân dân, chùa chiền mới bắt đầu được xây dựng.

     Từ Đông Tấn đến Tuỳ Đường, Phật giáo ngày càng thịnh hành. Để nghiên cứu một cách tưởng tận giáo lí của đạo Phật, nhiều nhà sư Trung Quốc như Pháp Hiển thời Đông Tấn, Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đời Đường đã tìm đường sang Ấn Độ. Ngược lại, nhiều nhà sư nước ngoài như Ấn Độ,

     Phù Nam cũng đến Trung Quốc để truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra Hán ngữ ngày càng nhiều, nhất là sau chuyến đi Ấn Độ của Huyền Trang

Giới thiệu về Đạo Phật

     Khi Bắc Tống mới thành lập, Triệu Khuông Dẫn cũng tôn sùng Phật giáo, do đó đã cho xây chùa, tạc tượng, in kinh, lại còn cử một đoàn gồm 157 nhà sư sang Ấn Độ để tìm hiểu thêm về đạo Phật.

     Sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo đã ảnh hưởng đến nguồn thuế khoá và lực lượng lao động của nhà nước, vì ruộng đất của chùa chiền được miễn thuế, các nhà sư được miễn lao dịch. Vì vậy nhiều hoàng đế Trung Quốc thờiĐường và thời Ngũ đại đã từng ra lệnh “bỏ Phật” tức là bỏ bớt chùa chiền, lấy tượng đồng và chuông khánh để đúc tiền, buộc phần lớn sư sãi phải hoàn tục ; hoặc như Tống Huy Tông thì cực lực bài báng Phật giáo và chủ trương đề cao Đạo giáo để thay thế vai trò của tôn giáo ngoại lai này. Tuy vậy, nếu vua trước bài báng Phật giáo thì vua sau lại nâng đỡ Phật giáo, cho nên Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại.

     Trong quá trình ấy, giữa ba học thuyết Nho, Phật, Lão đã không ngừng bài bác lẫn nhau. Ngược lại có một số người chủ trương thống nhất ba học thuyết ấy làm một vì họ cho rằng “Nho Phật nhất trì”, “Lão Phật cùng một thể chỉ khác nhau về vận dụng” v.v… Có người như Trương Dung thời Nam Tề, lúc sắp chết, tay trái cầm Hiếu kinhLão Tử, tay phải cầm Pháp hoa kinh để biểu thị sự nhất trí của ba tôn giáo ấy. Vương Thông thời Tuỳ cũng chủ trương hợp nhất Nho, Đạo, Phật trên cơ sở Nho học. Tuy rằng chủ trương này không thành công, nhưng kết quả là học thuyết nào cũng có tiếp thu một sốyếu tố của học thuyết khác để làm phong phú thêm học thuyết của mình.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lich su the gioi

Tìm hiểu về Đạo giáo

     Đạo giáo bắt đầu ra đởi từ cuối thời Đông Hán. Lúc bấy giờ chính trị rối ren, nhân dân khốn khổ. Vì vậy, nhân dân muốn tìm sự giúp đỡ của một lực lượng siêu nhiên, đồngthời muốn có một tổ chức để đoàn kết đấu tranh chống lại giai cấp thống trị. Trong khi đó, những hình thức mê tín dị đoan như bói toán, xem sao, tướng số, phù phép v.v… vốn lưu hành từ xưa trong dân gian đã được kết hợp với một sốyếu tố trong tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử để sáng tạo ra loại Đạo giáo này.

     Đạo Thái bình và Đạo Năm dấu gạo tuy là hai tổ chức khác nhau nhưng nội dung thì tương tự như nhau. Cả hai giáo phái này đều thờ ma quỷ, đều chú trọng bùa chú phù phép và đều dùng nước bùa để chữa bệnh.

Tìm hiểu về Đạo giáo

     Lí tưởng củaĐạo Năm đấu gạo là muốn xây dựng một xã hội không tưởng, trong đó không có quan lại thống trị mà chỉ có những người quản lí, đồngthời còn lập những quán tự giác gọi là “nghĩa xã”, trong đó treo gạo thịt để cung cấp cho những người đi đường. Khách qua đường có thể vào đó ăn cho đủ, nhưng không được ăn quá nhiều, nếu không sẽ bị quỷ thần trừng phạt. Còn chủ trương chính trị của Đạo Thái bình không thấy ghi chép cụ thể, mà chỉ được biết rằng đạo Năm đấu gạo đại thể cũng giống như bọn Khăn vàng (quân khởi nghĩa của tín đồ Đạo Thái bình) do đó có lẽ lí tưởng của Đạo Thái bình cũng tương tự như vậy.

     Sau khi tập hợp được đông đảo tín đồ, Trương giác đã biến Đạo Thái bình thành một lực lượng chính trị củanông dân để nổi dậy chống chính quyền Đông Hán. Phong trào khởi nghĩa này tuy bị đàn áp đẫm máu và tôn giáo của nông dân tuy bị giai cấp thống trị thù ghét, gọi là “tà giáo”, là “đạo yêu quái”, nhưng vẫn tiếp tục lưu hành trong dân gian.

     Trên cơ sở đạo Thái bình và đạo Năm đấu gạo, đến đởi Tấn, Đạo giáo chính thống được hình thành. Người đặt cơ sở đầu tiên của tôn giáo này là Cát Hông, hiệu là Bão Phác Tử.

     Thời kì này, tình hình xã hội Trung Quốc cũng rất hỗn loạn. Nắm quyền thống trị là tầng lớp địa chủ sĩ tộc, nhưng họ chỉ biết ăn chơi phóng đãng nên cuộc sống cảm thấy hết sức trống rỗng vô vị. Trong hoạn cảnh ấy, họ thấy chủ nghĩa thoát li thực tế của Lão Trang rất phù hợp với tư tưởng của họ, do đó trong giới quý tộc đã xuất hiện phái Thanh đàm, cả ngày chỉ cầm phất trần nói những chuyện huyền diệu vu vơ không liên quan gì đến thực tế. Trên cơ sở ấy, Cát Hông đã chính thức sáng lập ra một tôn giáo mới.

     Loại Đạo giáo này hoàn toàn dựa vào học thuyết của Lão Trang, do đó Lão Tử bắt đầu được tôn làm “Đạo đức quân” và Trang Tử được tôn làm “Chân nhân”, tức là những vị tiên.

     Nội dung tư tưởng chính của tôn giáo này là chủ trương thoát li hiện thực, không vướng mắc bụi đời, chỉ tu dưỡng nội tâm để kéo dài tuổi thọ. Hơn nữa, nếu luyện được thuốc tiên mà uống chỉ có thể sống mãi không gìà. Ngoài ra, Đạo Thần tiên cũng tin vào bùa chú phù phép, ví dụ cho rằng nếu có bùa đeo vào mình thì lên núi hổ không dám ăn thịt.

     Như vậy, Đạo Thần tiên là sự kết hợp học thuyết của Lão Trang với các hình thức cầu tiên, luyện đan và phù phép.

     Đến đời Đường, với lí do thuỷ tổ của Đạo giáo là Lão Tử cùng họ Lý với nhà Đường, Đạo giáo được tôn làm quốc giáo. Đường Cao Tông truy tôn Lão Tử làm “Thái thượng huyền nguyn hoàng đề“, vợ Lão Tử làm ‘Tiên thiên thái hậu”, thậm chí còn tạc tượng Không Tử đứng hầu bên cạnh Lão Tử.

     Thời Bắc Tống, Đạo giáo vẫn rất được tôn sùng. Tống Chẫn Tông lại phong Lão Tử làm “Thái thượng lão quân hỗn nguyên thượng đức hoàng đế”. Nhà Tống còn đặt ra nhiều cấp bậc trong tầng lớp đạo sĩ, tương đương với các cấp bậc quan lại. Tống Huy Tông cởn tự xưng là “Thượng đế nguyên tử thái tiên đế quân” giáng thế và bảo các quan lại tên mình là “Giáo chủ đạo quân hoàng đế“.

     Cùng với việc đề cao Đạo giáo, các vua Đường, Tống đã cho xây dựng nhiều đạo quán (chùa) đẹp đẽ, cấp cho các cơ sở tôn giáo ấy nhiều ruộng đất và thu nhận một số đạo sĩ  làm quan lại. Đó là thời hoàng kim của Đạo giáo ở Trung Quốc. Sau đó, trong các thời kì Nam Tống, Minh, Thanh, Đạo giáo tuy không được thịnh như trước nhưng vẫn tiếp tục tồn tại.


Sự phát triển của Nho Giáo

     Đến đời Tống, các học giả cho rằng quan điểm triết học của Nho giáo quá đơn giản, không được sâu sắc như quan điểm triết học của Phật giáo và Đạo giáo. Vì vậy, họ đã khai thác quan niệm về vũ trụ của kinh dịch, đồng thời tiếp thu phương pháp luận của Đạo giáo và Phật giáo để giải thích nguồn gốc của vũ trụ và chú thích lại các sách kinh điển của nhà Nho. Về cụ thể, quan điểm của các nhà Nho đời Tống có khác nhau ít nhiều, nhưng về cơ bản họ đều cho rằng nguồn gốc của vũ trụ gồm có hai yếu tố là (tinh thần) và khí (vật chất), trong đó lí là yếu tố có trước, vì vậy họ được gọi chung là phái Lí học.

    Người đầu tiên đề xướng Lí học là Chu Đôn Di (1016-1073) sống vào thời Bắc Tống. Ông cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là thái cực. Thái cực vận động thì sinh ra dương, ngừng vận động thì sinh ra âm. Âm dương giao cảm với nhau mà sinh ra ngũ hành, trời đất, rồi sinh ra người, vạn vật cho đến vô cùng. Còn trước thái cực thì không có vật chất tồn tại, chỉ có “vô cực tức là “lí” mà thôi. Như vậy quan điểm triết học của Chu Đôn Di thuộc loại duy tâm khách quan. Sau Chu Đôn Di còn có nhiều nhà Lí học nổi tiếng khác như Trình Hạo, Trình Di, Trương Tải, Lục Cửu Uyên v.v…

Sự phát triển của Nho Giáo

    Đến thời Nam Tống, đại biểu xuất sắc nhất của phái Lí học là Chu Hi(1130-1200). Ông cho rằng lí và khí không thể nói cái nào có trước cái nào có sau, nhưng nếu suy đến cùng thì hình như lí có trước.

    Tuy Chu Hi không có đóng góp gì mới vềmặt lí luận, nhưng thành tích chủ yếu của ông trong việc phát triển Nho học đời Tống là ông đã dùngquan điểm lí học để chú thích lại các sách kinh điển của nhà Nho. Ví dụ ông cho rằng bốn mặt đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí mà Mạnh Tử nêu ra đều là những biểu hiện của lí nhờ đó mà làm cho người ta biết thương xót, xấu hổ, nhường nhịn và phân biệt phải trái. Đồngthời, cùng với Trình Hạo, Chu Hi đã rút ra thiên Đại học do Tăng Sâm soạn và thiên Trung dung do Tử Tư soạn ở trong sách Lễ kí thành hai sách riêng. Từ đó, bốn quyển sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung trở thành bộ kinh điển thứ hai của Nho gia gọi là Tứ thư. Như vậy, mặc dầu chưa thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm, nhưng phái Lí học đã làm cho triết học Nho giáo thêm phần sâu sắc trừu tượng, nhưng đồngthời do sự câu nệ giáo điều trong việc học tập Không Mạnh nên Nho học đời Tống cũng trở nên khắt khe bảo thủ hơn trước.

    Trong khi đó, nhiều vua đời Tống cũng rất tôn sùng Nho học ; do vậy, Tống Chân Tông (998-1022) truy tặng Không Tử danh hiệu “Chí thánh Văn tuyên vương” còn 72 đệ tử thì được truy phong làm Công, Hầu, Bá. Tống Thần Tông (1065-1085) thì phong Mạnh Tử làm “Châu quốc vương, được tạc tượng cùng Nhân Tử ngồi hầu Khổng Tử. Đến thời Độ Tông (1265-1275), Tăng Tử, Tử Tư cùng với Nhan Tử, Mạnh Tử được ngồi hầu Không Tử gọi là “tứ phối”. Bằng những việc làm nói trên, các vua Tống đã làm cho Nho học càng đượm thêm màu sắc tôn giáo.

    Tóm lại, Nho học hoặc Nho giáo thực chất không phải là một tôn giáo mà chỉ là một trưởng phái tư tưởng chính trị chủ trương dùng đạo đức để làm cơ sở cho đường lối trị nước, đồng thời chú trọng đến việc giáo dục cảm hoá nhân dân. Nhờ áp dụng đường lối này, sự tàn bạo của giai cấp thống trị có thể được hạn chế một phần, đồngthời nền văn hoá giáo dục Trung Quốc thời trung đại đã đạt được những thành tựu rất lớn. Nhưng đến cuối thời phong kiến, do tính chất bảo thủ, sùng cổ, cứng nhắc của nó, Nho giáo đã trở thành một lực lượng ràng buộc tư tưởng tình cảm con người vào những khuôn khổ chật hẹp lỗi thời và kìm hãm sự tiến bộ của xã hội.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lịch sử thế giới